Michael Haneke có lẽ rất có duyên với Việt Nam khi có đến
hai bộ phim của ông từng công chiếu ở đây: năm 2006 là Hidden và năm nay, trong
dịp Liên hoan phim quốc tế Hà Nội, là Amour. Khán giả Hà Nội có lẽ cũng rất có
duyên với Amour, vì hơn một tháng sau khi ra mắt người hâm mộ Thủ đô, bộ phim
được đề cử Oscar 2013 trên cả hai hạng mục Phim hay nhất và Phim nói tiếng nước
ngoài hay nhất. Đã 13 năm, kể từ khi Lý An làm được điều này với Ngọa hổ tàng
long.
Hai trăm ba mươi bảy là tổng tuổi của ba con người đã làm
nên một Amour khiến phòng chiếu của Megastar lặng đi khi 127 phút nặng nề, ngột
ngạt đã trôi qua, và cũng khiến vài người bỏ về khi chưa quá nửa phim. Michael
Haneke tròn 70, còn Jean-Louis Trintignant đã 82. Và Emmanuelle Riva, tròn 86
vào Lễ trao giải Oscar lần thứ 85, đã đi vào lịch sử khi là người già nhất được
đề cử Nữ diễn viên chính xuất sắc.
Để làm Amour, Haneke phải vời đến hai tên tuổi lão làng của
điện ảnh Pháp. Một người lừng lẫy với And God created Woman, còn người kia nổi
danh với Hiroshima mon amour. Họ vào vai một cặp vợ chồng nghệ sĩ dương cầm
già, sống cách xa cô con gái duy nhất (Isabelle Huppert) ở Paris. Khi Anne bị
tai biến sau phẫu thuật, Georges âm thầm vật lộn trong sự già nua và cô độc để
săn sóc bà. Sau vài phút đầu quay ngoại cảnh, câu chuyện của Amour trở về xoay
quanh những sinh hoạt hàng ngày của Georges và Anne trong cuộc sống hậu-tai-biến
của họ.
Haneke chọn Trintignant và Riva, không chỉ bởi danh tiếng và
kinh nghiệm diễn xuất, mà còn bởi vẻ đẹp thanh tân của họ đã vĩnh viễn được bảo
tồn trong những thước phim kinh điển của thập niên 50, khiến việc phải chứng kiến
họ già nua và chậm chạp, nhăn nheo và khô héo trên màn ảnh, đã là một sự trừng
phạt đối với người xem. Bản thân họ càng ý thức hơn ai hết, câu chuyện của
Georges và Anne cũng chính là câu chuyện của họ, ở một tương lai không xa. Cuộc
chiến đấu vì sự tự tôn trên phim chính là cách họ tập dượt cho mình, và bởi thế
họ đã dốc vào đó trọn vẹn chút trí lực lẫn sinh lực còn lại của tuổi già.
Từ đầu phim, chúng ta đã biết Anne sẽ chết. Câu hỏi đặt ra
là, cái chết đến với bà như thế nào? Và Georges ở đâu, làm gì trong suốt quá
trình này? Với sự tàn nhẫn quen thuộc, Haneke không cho người xem một câu trả lời
ngắn gọn, đơn giản, dễ dàng. Ông bắt chúng ta phải chứng kiến từ đầu đến cuối,
phải cùng với Georges và Anne chầm chậm trải qua từng giây phút khó khăn, tuyệt
vọng, đau xót, thậm chí tủi hổ và mất tự tôn của họ. Không phải ngẫu nhiên
Haneke lại đưa vào đầu phim một cảnh tĩnh khá dài, khi Georges và Anne nghe hòa
nhạc, ngồi lẫn trong khán phòng cùng đông đảo khán giả. Đó là một nghịch lý đầy
chua xót: khi ra xã hội, họ là thành phần trí thức, họ thuộc về một cộng đồng
“élite”. Nhưng kỳ thực họ hoàn toàn đơn độc. Những người khác, từ cô con gái, từ
người học trò, từ bác hàng xóm tử tế, dù nỗ lực bao nhiêu, dù có lòng đến mấy,
cũng chỉ chạm đến rìa nỗi đau của họ mà thôi. Ở trung tâm nỗi đau ấy, họ vẫn chỉ
có một mình. Đó là bi kịch không chỉ của riêng họ, mà của chung cả một tầng lớp
người già ở những xã hội phát triển. Và khi đặt ống kính từ sân khấu nhìn xuống
đôi vợ chồng già ngồi lẫn trong đám đông, Haneke đã đặt khán giả vào “cùng một
phía” với người học trò của Anne, và với cô con gái cũng là một nhạc công, khiến
chúng ta bỗng thấy ăn năn vì đã là một phần trong sự bàng quan của xã hội trước
những bi kịch như thế. Bộ phim kết thúc bằng cảnh Eva ngồi lặng giữa ngôi nhà
trống, như đang cố hiểu chuyện gì đã xảy ra. Haneke nói, có lẽ cô đại diện cho
“lương tri tội lỗi” của chính chúng ta, những kẻ đã mua vé để được chứng kiến nỗi
đau của Georges và Anne.
Có thể Trintignant và Riva là hai diễn viên chính, song nhân
vật chính của Amour lại là sự chết. Haneke đặt sự chết trước ống kính và nhẩn
nha quan sát, phơi bày từng bước đi tàn nhẫn của quá trình hoại tử này. Ta biết
rõ điều gì sẽ đến, nhưng mỗi khi sự chết dấn thêm một bước, ta vẫn không nhịn nổi
phải rùng mình trước sự bất lực vô cùng ấy. Một phần không nhỏ câu chuyện diễn
ra trong phòng đọc, nơi hai bức tường ken đầy sách vở, băng đĩa, và cây đàn
dương cầm trang trọng đặt bên cửa sổ. Căn phòng là tượng trưng cho một đời tích
lũy tri thức của hai vợ chồng, cũng là thành lũy cuối cùng của họ, hai tâm hồn
cao quý trong cuộc chiến hoang mang mà tất bại với bệnh tật. Haneke còn ác ở chỗ,
khi khán giả vẫn đang đờ đẫn với sự chậm rãi của câu chuyện thì ông đột ngột cắt
cảnh để đẩy nỗi đau lên một tầng cao mới, không để cho chúng ta chút thời gian
chuẩn bị nào. Cả hai lần Anne đột quỵ đều không xuất hiện trên phim. Màn ảnh tối
đi một giây và khi sáng lên thì bà đã ngồi hoặc nằm đó, liệt nửa người hoặc
toàn thân. Và, tột đỉnh của nỗi đau, khi ập tới, đã đâm thấu tim người xem đúng
lúc ta ít đề phòng nhất, làm ta tê liệt hoàn toàn. Kể cả những khán giả giàu
kinh nghiệm, và dự báo được tình huống ấy, có lẽ cũng khó lòng chịu đựng nổi
khi nó xảy ra.
Nhưng, khác với Funny Games và Hidden, với Amour, Haneke lại
bộc lộ một niềm cảm thông hiếm thấy ở người đạo diễn của những cảm xúc cực đoan
này. Có thể bởi Amour xuất phát từ niềm đau riêng của chính ông, khi phải chứng
kiến người dì đã nuôi ông thành người vật vã với bệnh tật ở tuổi 92, và cuối
cùng đã kết liễu cuộc đời bằng một liều thuốc ngủ. Trintignant đã thay ông tái
hiện trải nghiệm bi thảm ấy một cách chân xác nhất. Cái cách Georges từ chối
đưa Anne vào viện, từ chối sự giúp đỡ của mọi người, từ chối cho Eva gặp mẹ làm
ta phải buốt lòng bởi nó vừa ngoan cố, vừa khùng điên, lại vừa anh dũng. Và
dũng cảm không kém là Riva, khỏa thân ở tuổi 85, để phơi bày tận cùng sự bất lực,
không thể phản kháng mà tuổi tác và bệnh tật luôn chực chờ giáng xuống chúng
ta, qua đó giúp Haneke truy cầu câu trả lời tàn khốc nhưng vô phương né tránh về
bản chất của sự chết.
Vị khách cuối cùng ghé thăm đôi vợ chồng già là một chú bồ
câu, một biểu tượng kỳ lạ của sự sống. Cảnh Georges lùa bắt chú chim trong gian
sảnh tối tăm và kín cửa là ẩn dụ về nỗ lực tuyệt vọng của ông, đuổi bắt sự sống
cho Anne trong ngôi nhà biệt lập, nơi sự chết đang dần chế ngự. Cả hai quá
trình chỉ làm nổi bật thêm sự già nua, yếu đuối, bất lực nơi ông. Và, sau cùng,
như trong một Tình già khác, dẫu “buông nhau làm sao nỡ”, ông đã buông tay.
Trong cả hai lần. Và không hẳn là không có chút nhẹ nhàng, thanh thản.
Bài đã đăng trên Thể thao Văn hóa Đàn ông số tháng 2/2013.
No comments:
Post a Comment